Bài: Vi Anh/Viễn Đông
Tết là lễ hội, văn hóa, truyền thống, lớn nhứt, tiêu biểu nhứt của nền văn hóa Việt Nam. Tết là cơ hội ôn cố, tri tân, để bảo tồn và phát huy văn hóa đó.
Nhưng cũng có người nói người Việt ở Mỹ bây giờ trở thành công dân ngoại quốc đông nhứt ở Mỹ, thì phải theo văn hoá Mỹ. Một câu nói hết sức chung chung, chính người nói cũng không thể minh định thế nào là văn hoá Mỹ để theo huống hồ người nghe là người gốc Việt ở đất Mỹ. Và ai cũng biết nước Mỹ là một xã hội đa nguyên, đa văn hoá, đa sắc tộc, không người Mỹ chánh trực nào muốn những người Mỹ gốc các sắc tộc khác phải từ bỏ bản chất, bản sắc văn hoá của sắc tộc nguồn cội mình. Không ai muốn người Mỹ gốc Việt thành những người Mỹ Da Vàng mất gốc Việt cả. Từ văn hoá, chánh trị đến xã hội học Mỹ đều gọi người Việt công dân hay thường trú nhân họp pháp của Mỹ là người “Mỹ gốc Việt” (Vietnamese Americans).
Ai cũng biết chỉ có Loài Người là linh vật tự làm ra văn hoá cho mình để xã hội mình cùng sống chung theo chuẩn mực đó. Loài ong, kiến có lối tổ chức tinh vi như ong chúa chỉ đẻ, kiến thợ chỉ xây, ông lính chỉ tác chiến. Nhưng lối tổ chức đó biến thành phản xạ muôn đời, đó không phải là văn hoá, mà là phản xạ lưu truyền riết thành di truyền thành bản năng. Trái lại văn hoá của Con Người không phải là phản xạ, không di chuyển, mà do bắt chước và học hỏi, thu nhận và thu nhập nên có nhiều thay đổi.
Ngay trong lịch sử văn hoá ngắn ngủi có mấy trăm năm của Mỹ, tiến trình cũng thay đổi nhiếu lần. Từ thuở khởi thủy di dân Âu châu mủi lỏ, mắt xanh, tóc vàng râu bắp là thành phần trội yếu với sự tiếp sức của Thực dân Anh, buộc các sắc tộc khác phải “ đồng hoá hoà đồng” với họ. Tiếng Anh thành chuyển ngữ. Nhưng qua thời kỳ độc lập, quan niệm đồng hoá theo kiều nấu chảy thành khuông văn hoá Mỹ (melting pot) chẳng ai theo. Các sắc tộc chỉ “hoà nhập” biến văn hoá Mỹ như là một tô salad, trong đó rau quả, đường, muối giữ bản chất của mình. Có lẽ câu thơ của Bùi khánh Đản mô tả khá đúng cái văn hoá Mỹ đa nguyên, đa sắc tộc này: “Tụ kết tinh anh của gió sương, muôn màu muôn vẻ lại muôn hương”, nói lên cái văn hoá của các sắc tộc nhập cư tạo nên xã hội Mỹ này.
Do vậy rất hợp tình, hợp lý khi thấy văn hoá hay lối sống chung của người Việt gốc tỵ nạn Cộng Sản trên đất Mỹ. Có biểu tình chống Cộng sản bán đất dâng biển, quốc tế vận ủng hộ các tôn giáo và đồng bào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền Việt Nam. Có vận động hạ lá cờ đỏ và giương cao quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ lên để chánh quyền các nước có người Việt định cư thừa nhận, v.v và v.v. Ngần ấy việc biểu tình, đấu tranh, vận động rất qui mô, rầm rộ, bền bĩ suốt gần 50 năm, thật đáng kính phục lòng kiên nhẫn và y chí bất khuất của con người Việt Nam. Thật xứng đáng với lời thề nguyền đi tìm tự do cho mình và cho người kẹt ở lại khi người Việt Hải Ngoại gạt nước mắt ra đi, để lại phía sau nước nhà với một nền văn hóa đã ăn sâu vào tim óc, sống gìn giữ, chết đem theo của người Việt Quốc gia.
Người Mỹ gốc Việt không chấp nhận Cộng Sản, không sống được ở VN nằm trong gọng kềm Cộng Sản, nên tỵ nạn Cộng Sản ra khỏi nước. Người Việt tỵ nạn không sống được ở VN, di tản mang hồn thiêng sông núi VN theo mình. Gần nửa thế kỷ ở Mỹ đã thuyết phục nhân dân và chánh quyền Mỹ của hàng chục tiểu bang hàng trăm quận hạt, thành phố công nhận biểu tượng văn hoá, niềm tin thiêng liêng của mình.
Trong mọi sinh hoạt long trọng, đấu tranh chống Cộng Sản, lễ hội văn hoá, xã hội đều có chào quốc kỳ này như hồn thiêng sông núi và tưởng niệm anh linh tử sĩ đã chiến đấu và hy sinh dưới bóng cờ này. Đó không phải là văn hoá, thì là cái gì.
Có người nói đó không phải là văn hoá Mỹ, cho rằng Mỹ bây giờ đã giao thương và bang giao với CSVN, quốc kỳ của Cộng Sản Hà nội là lá cờ khác. Thật là một nhận xét phiến diện về văn hoá. Một biểu tượng chỉ được xem là văn hoá khi được nhiều người chấp nhân là “của mình” và đồng ý sống theo chuẩn mực ấy. Cây cờ của Cộng Sản Hà nội người Mỹ gốc Việt đa số gọi là cờ máu, không ai treo; nên dù Hà nội có bang giao với chánh quyền Mỹ, cờ máu của Cộng Sản chỉ rú rú như gián ngày ở trong trụ sở Toà Đại sứ và Tổng Lãnh sư Cộng Sản Hà nội. Đối với đại đa sồ người Mỹ gốc Việt, cờ máu của Cộng Sản Hà nội là “phản văn hoá”. Chỗ đông người Mỹ gốc Việt, ai cầm cờ đỏ sẽ trở thành một kẻ công xúc tu sỉ, sẽ bị tập thể chống đối quyết liệt.
Bên cạnh những hoạt động qui mộ và rầm rộ để bảo tồn và phát huy văn hoá Việt ấy của tập thể người Việt Hải Ngoại, còn nhiều cố gắng âm thầm, kiên nhẫn và can đảm, đòi hỏi nhiều chuyên môn. Mục đích tối hậu của những chiến sĩ văn hoá âm thầm này là, mặt này để bảo tồn bản chất và bản sắc văn hóa Việt Nam trong môi sinh mới lạ cách nước nhà nửa vòng Trái Đất. Và mặt khác là để phát huy văn hóa cho lớp trẻ hậu duệ sanh ra, lớn lên, ăn học nơi quê hương mới. Làm việc ấy là những thầy cô giáo tình nguyện dạy tiếng Việt ở tại các trung tâm Việt ngữ đặt tại nhiều nơi khắp nhiều nước định cư, đặc biệt ở Mỹ và nhất là tiểu bang Cali.
Tiếng Việt là con thuyền chánh chuyên chở văn hóa Việt Nam. Không có tiếng Việt thì hồn Việt, tâm Việt, đạo Việt, sử Việt, cộng đồng Việt, xã hội Việt, người Việt, dân Việt, nước Việt khó còn.
Như đã thưa ở trên, văn hóa theo phân tích của các nhà xã hội học, không do thiên phú, trời sanh ra, đương nhiên có. Cũng không phải do bản năng mà do học hỏi giữa thệ hệ này với thế hệ khác và giữa những người đồng thời tương tác với nhau. Mà ngôn ngữ là phương tiện, là thành tố quan trọng nhứt. Nên ngôn ngữ cũng phải học mới biết. Học từ trong bụng mẹ, lúc chào đời, lúc nhập thế ở nhà, ra trường, vào xã hội, và lúc xuất thế sống với nội tâm và tự đặt mình trong lòng Mẹ Việt Nam. Từ đó có từ ngữ “tiếng mẹ” (mother language).
Nếu ở nước nhà việc học tiếng mẹ Việt rất dễ vì cá nhân, gia đình, và xã hội đều nói tiếng Việt. Tại các nước định cư việc học tiếng Việt khó vì tương quan tam giác giúp cho việc giáo dục thành công là cá nhân, gia đình, và xã hội bị gãy đổ một phần. Lớp trẻ học ở trường bằng chuyên ngữ (vehicle language) bó buộc là ngôn ngữ của quốc gia định cư. Chuyển ngữ của quốc gia định cư thường khác với tiếng mẹ của người Việt nhập cư. Nhiều gia đình nhứt là vợ chồng trẻ dùng chuyển ngữ của nước định cư. Xã hội cũng thế, từ truyền thông đại chúng, chương trình giáo dục phổ thông, giải trí đại đa số dùng ngôn ngữ của quốc gia định cư.
Do vậy đối với lớp trẻ Việt sinh tại nơi quê hương mới, học tiếng Việt chánh yếu cậy nhờ vào các trung tâm dạy tiếng Việt và một phần nơi gia đình mà thôi. Thầy cô giáo được đào tạo phương pháp sư phạm để dạy tiếng Việt, kết quả và hiệu năng cao hơn gia đình.
Và Cộng Sản Hà nội muốn nhuộm đỏ các cộng đồng người Việt Quốc Gia ở hải ngoại cũng dùng văn hoá vận để tấn công băng quyền lực mềm và cứng. Mềm qua lời ca tiếng hát, gởi giáo viên, sách vở qua Mỹ, khai thác tình tự quê hương. Cứng như âm mưu dùng tiền lũng đoạn cộng đồng, hề hoá các cuộc đấu tranh. Mà Nghị quyết 36 của Hà nội là sách lược chính của họ ./.( Vi Anh)