KIỀU MỸ DUYÊN
Thầy ơi, con về thăm thầy. Thầy ơi, con về thăm thầy!
Nơi tôi đến là một ngõ hẻm nhỏ, xe hơi không vào được, người tài xế phải đậu xe bên ngoài, tôi đi bộ vào ngõ hẻm. Đây là Thư Quán Hương Tích, địa chỉ 2/5 Đoàn Thị Điểm, Phường 1, Quận Phú Nhuận. Thầy Hạnh Viên mở cửa. Trước khi tôi về Việt Nam, thầy Quảng Ngộ cho tôi địa chỉ bảo tôi nơi đây là nơi thờ thầy Tuệ Sỹ. Tôi tưởng đây là ngôi chùa, không ngờ đây là nơi in sách Phật giáo, trong đó đa số là sách của thầy Tuệ Sỹ. Thầy Viên Hạnh yên lặng, thầy ít nói, tôi hỏi về thầy Tuệ Sỹ. Thầy Hạnh Viên lặng lẽ, không nói một lời, thầy tiếp chúng tôi một cách yên lặng. Thầy Hạnh Viên gầy giống thầy Tuệ Sỹ, nhìn 2 thầy như hai anh em ruột. Thầy Hạnh Viên gầy nhưng không sợ bạo quyền. Trong đám ma của thầy Quảng Độ, nhà cầm quyền không cho đề chữ Phật Giáo Thống Nhất trong biểu ngữ, thầy trả lời: “Đám ma xong, các ông bỏ tù tôi cũng được, bây giờ tôi để Phật Giáo Thống Nhất trên biểu ngữ”.

Hình thầy Tuệ Sỹ trên tường, tươi cười như ngày nào chúng tôi cùng với phái đoàn YMCA, phái đoàn từ thiện quốc tế, trụ sở chính ở London, Anh Quốc, về thăm thầy năm 2005 ở chùa Già Lam, Gò Vấp. Thầy cười, im lặng nhiều hơn nói.
Một tuần trước khi thầy Tuệ Sỹ viên tịch, thầy nói với tôi:
– Bác sĩ nói bệnh ung thư của tôi đến gan rồi.
Giọng thầy bình thản, không lo sợ, dửng dưng như kể chuyện đời xưa cho học trò nghe.
Tôi thưa với thầy:
– Thầy ơi, con sẽ về thăm thầy.
Lúc đó, tôi không tin thầy sẽ qua đời. Thường thì bệnh ung thư cả năm mới mất, vậy mà với thầy Tuệ Sỹ, một tuần sau chúng tôi nghe thầy viên tịch.
Sau năm 1975, thầy Tuệ Sỹ và thầy Trí Siêu sau khi đọc bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền trước Quốc Hội thì bị bắt, bị án tử hình, sau được nhiều nguyên thủ quốc tế can thiệp, bản án tử hình thay bằng ở tù 20 năm, sau đó quốc tế can thiệp 15 năm sau được thả về. Thầy Tuệ Sỹ về chùa Già Lam không hộ khẩu, thầy Trí Siêu về thánh thất ở Bình Chánh.
Tôi về Việt Nam, nhất định phải thăm thầy Tuệ Sỹ, thăm thầy Nguyên Giác, ở chùa Già Lam, và thầy Trí Siêu. Tôi thăm nơi thờ phượng thầy Tuệ Sỹ trước, rồi đến thăm thầy Trí Siêu và thầy Nguyên Giác ở chùa Già Lam, Gò Vấp.

Thầy Hạnh Viên tặng nhiều sách cho tôi, đa số là sách của thầy Tuệ Sỹ. Đi đâu tôi cũng thích được tặng sách. Đến Quy Nhơn, các sơ tặng sách, lên Gia Lai, linh mục tặng sách, đến Kontum, Giám Mục Hùng tặng sách, về Kontum, linh mục Quyên, linh mục Phan Tự Cường- người viết sách về linh mục Trần Ngọc Thanh bị chặt cổ trong lúc đang rửa tội ở nhà thờ trong rừng núi Kontum- tặng sách, đến Thái Bình, Giám Mục Nguyễn Văn Đệ, tặng sách, đến Bình Dương, linh mục Phạm Ngọc Vân tặng, đến Vĩnh Long được Đức Ông Nguyễn Văn Phương tặng sách. Đi đâu tôi cũng được tặng sách, sách là tài sản của tôi. Sách của tôi, khi đọc xong, tôi sẽ tặng lại các thư viện Nixon và các thư viện khác của Mỹ.
– Thầy ơi, con về thăm thầy.
Thầy không lên tiếng, viên tịch xong hỏa táng, tro rải ra biển. Phòng thầy Tuệ Sỹ rất nhỏ, dưới phòng của thầy Tuệ Sỹ là mồ mã của người vô danh, có lẽ là Phật tử hay tu sĩ trong chùa? Thầy tiếp phái đoàn YMCA một cách vui vẻ. Thầy thông thạo nhiều ngôn ngữ. Trong phái đoàn của chúng tôi có người nói tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Anh, … Thầy đãi phái đoàn xôi và trái cây tươi. Tôi lặng lẽ lắng nghe cuộc đàm thoại của thành viên trong phái đoàn với thầy Tuệ Sỹ một cách thích thú.
Mắt thầy sáng như sao trời. Thầy gầy, gầy hơn người bình thường. Thầy vui vẻ, lúc nào cũng tươi cười, thầy và khách đến thăm có sự cảm thông về nhiều vấn đề khác nhau, nhất là vấn đề giáo dục, thầy Tuệ Sỹ là khoa trưởng Phật học ở viện đại học Vạn Hạnh.
Khi chúng tôi đến, năm 2001, trước cổng chùa có một đại đội Công An canh cổng. Cô Hội là em ruột của thầy cùng ông xã ở Pháp thường về thăm thầy và nhiều lần mời thầy sang Pháp nhưng thầy từ chối. Quốc hội Hòa Lan do sự vận động của cộng đồng người Việt ở Hòa Lan mời thầy sang Hòa Lan để thuyết trình về sự vi phạm nhân quyền và không có Tự Do Tôn Giáo ở Việt Nam thì thầy từ chối, vì thầy biết đi rồi không được trở lại. Thầy nói với nhiều Phật tử: sống chết thầy cũng phải ở quê hương Việt Nam.

Lần nào về Việt Nam, tôi cũng để thì giờ đến thăm thầy Tuệ Sỹ. Năm 2001, lúc tôi đang làm đại bồi thẩm đoàn của tòa án Orange County, tôi nói với ông chủ tịch chánh án đoàn rằng tôi sẽ về Việt Nam. Ông chánh án nói:
– Phải liên lạc với tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội hoặc tòa tổng lãnh sự Mỹ ở Sài Gòn nếu có chuyện gì xảy ra.
May mà chuyến đi đầu tiên mọi sự tốt đẹp, rồi chuyến đi thứ nhì năm 2005, mọi sự cũng tốt đẹp. Thầy Tuệ Sỹ lúc nào cũng sống thong dong, tự tại, không lo lắng, không sợ hãi. Thầy đánh đàn dương cầm, làm thơ, thơ của thầy được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc như nhạc sĩ Trần Quan Long, Trần Chí Phúc, Nam Hưng, …. Các bài hát được phổ từ thơ của thầy Tuệ Sỹ được phổ biến khắp nơi trên thế giới, được nhiều người ngưỡng mộ và thưởng thức.
Thầy ơi, con sẽ về thăm thầy, nhưng con chưa về thì thầy đã ra biển. Mới đây mà đã 1 năm, đám giỗ của thầy được tổ chức khắp nơi trên thế giới, không phải chỉ ở Việt Nam mà được tổ chức long trọng ở Hoa Kỳ, Đức, Úc Châu và khắp nơi trên thế giới có người Việt Nam cư ngụ.
Xin trích một vài vần thơ trong tập thơ “Giấc mơ Trường Sơn” (1968 – 1974) của thầy Tuệ Sỹ nói lên nỗi lòng của tôi khi về thăm thầy nhìn cảnh cũ, nhưng người đã ra đi:
“Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.”
“Mười năm sau anh sẽ về thăm phố cũ
Màu Trường sơn pha nắng rực trưa hè
Anh vẫn nhớ những con đường bụi đỏ
Và tình yêu trong ánh mắt rã rời.”
(Bài thơ “Anh sẽ về thăm phố cũ” – Rừng Vạn Giã 77)
“Thời gian đi khấp khiểng
Để rụng phấn rơi hồng
Tơ nắng dài tâm sự
Bồi hồi mộng vẫn không.”
(“Bồi hồi”- tập thơ “Giấc mơ Trường Sơn”)
Và hình bóng thầy như vẫn đợi:
“Tôi vẫn đợi những đêm dài khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù, tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng.
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha.
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại giữa lòng tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai, như ánh chớp, mây chiều.”
(Bài thơ “Tôi vẫn đợi”- Sài gòn 78)
Giờ đây, thầy như “cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu”:
“Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
Một mùa thu một vạn tiếng kêu gào
Khuya còn lạnh sương mù và gió lốc
Thở hơi dài cát bụi cuốn chiêm bao.
Bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc
Một lần đi là vĩnh viễn con tàu
Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng
Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu.”
(Bài thơ “Cánh chim trời”)
Cầu xin thầy yên nghỉ trong cõi Vĩnh Hằng, chúng con nơi đây luôn nhớ đến thầy:
“Khói ơi bay thấp xuống đi
Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân
Ta đi trong cõi Vĩnh hằng
Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần rụng hoa”
(Bài thơ “Tĩnh thất” 2000- 2001)
“Ngày và đêm, đày đọa hình hài và tâm trí, đứng trơ vơ, kinh đảm hãi hùng, trên chiếc cầu độc mộc, bắc ngang qua ghềnh sinh tử”
“Dưới núi La phù mai hoa thôn
Tuyết ngọc là xương băng là hồn
Phơi phới ngỡ chừng trăng gác ngọn
Trơ vơ như sao Hôm hoàng hôn
Tiên sinh lênh đênh đời sông biển
Rầu như hạc ốm đậu vườn hoang
Hương trời sắc nước không buồn ngó
Biết ta rượu mùi thơ ấm trong
Trong cung Bồng lai hoa chim làm sứ
Áo xanh treo ngược cây dâu hừng đông
Ôm cây liếc ta đang say nằm đó
Mổ cây gõ cửa nhắn đợi sẵn sàng
Tiên bà qua đây hãy lo quét tước
Chim hay ca múa hoa biết nói năng.
Rượu tỉnh người tan non vắng vẻ
Hững hờ nhị rụng đáy ly không.”
(Trích “Tô Đông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng” của thầy Tuệ Sỹ)
Ngày hôm sau, ngày 9/12/2024, chúng tôi đi thăm thầy Trí Siêu ở Bình Hưng Hòa A, Bình Chánh. Phòng khách rất rộng, xung quanh là sách, kệ sách trước mắt, sau lưng, bên phải, bên trái, chỗ nào cũng đầy sách. Thầy gầy như ngày xưa, thầy đọc sách rất nhiều. Chúng tôi nhắc về thầy Tuệ Sỹ. Thầy Trí Siêu rất thương thầy Tuệ Sỹ, ai cũng biết điều đó. Cả 2 thầy đi tù 15 năm. Ra tù, hai thầy làm việc tích cực, viết sách, in sách, không than, không rên rỉ, làm việc và làm việc. Thầy Trí Siêu có bằng tiến sĩ ở Minisota, Hoa Kỳ. Về nước, dạy học, rồi sau năm 1975, đi tù. Nhân tài ở đất nước Cộng Sản lúc nào nhà tù cũng ở trước mặt. Thầy Trí Siêu nhắc đến thầy Tuệ Sỹ một cách thương tiếc.
Buổi chiều, tôi đến chùa Già Lam ở quận Gò Vấp thăm thầy Nguyên Giác, ngày xưa ở trên lầu, gần phòng của thầy Tuệ Sỹ. Phật tử đến chùa rất đông, tụng kinh. Thầy Nguyên Giác thường làm việc thiện ở Quảng Trị. Mỗi lần thầy đi phát quà cho nhiều đồng hương nghèo ở Quảng Trị, bao giờ cũng có Phật tử tháp tùng với thầy đi phát quà. Tỉnh Quảng Trị rất nghèo, nhiều Phật tử ở Mỹ về nước cũng đi làm từ thiện với thầy Nguyên Giác, trong đó có bà Mai Hương, mẹ ông Vĩnh Lộc, chủ nhà hàng Seafood World, hàng năm về Việt Nam, đi tặng quà cho người nghèo ở các tỉnh miền Trung.
Một đời người tài hoa, đạo đức, lãnh đạo Phật giáo nhưng rất khiêm tốn. Thầy Tuệ Sỹ và thầy Trí Siêu không bao giờ tự xưng mình là Hòa Thượng hay giáo sư, vì với hai thầy, từ ngữ xưng hô không có gì quan trọng. Những người giỏi thường khiêm tốn như thế. Thầy Tuệ Sỹ đã đi rồi, bây giờ thầy Trí Siêu vẫn làm việc không ngừng nghỉ.
Thầy Tuệ Sỹ viết và dịch nhiều kinh sách, nói thông thạo 12 ngôn ngữ. Thầy Trí Siêu có bằng tiến sĩ ở Mỹ. Hai thầy là nhân tài hiếm có trong Phật giáo Việt Nam, không ham danh lợi, suốt đời tu hành, phụng sự xã hội.
Cố Hòa Thượng Mãn Giác thường nói: thầy Tuệ Sỹ và thầy Trí Siêu là 2 viên ngọc kim cương trong Phật giáo Việt Nam. Câu nói này làm cho nhiều người nhớ mãi.
Cầu xin thầy Tuệ Sỹ về Cõi Niết Bàn và phù hộ cho người dân Việt Nam được hưởng Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo như những người dân của các nước văn minh khác trên thế giới.
Orange County, 1/2025
KIỀU MỸ DUYÊN
(kieumyduyen1@yahoo.com)